Dịp cuối tuần, tôi
về quê thăm ngoại. Buổi sáng, các cụ đến nhà uống nước trà với ngoại, nghe các
cụ thì thầm “Năm nay coi bộ trời không mưa, đồng ít nước nhưng được cái trời
phú, cá đồng lũ lượt kéo về, bà con mình có vẻ rộn rã hẳn lên”. Các cụ bàn tán
năm nay đồng mình cá tràu nhiều, có người giăng câu một đêm hơn hai chục ký.
Tôi nghe đến giăng câu, đến cá tràu bỗng dưng cảm thấy thích thú. Lúc nhỏ về
quê, ngoại thường dẫn tôi đi giăng câu, tôi thích cái cảm giác thả mồi rồi chờ
cá đớp. Vậy đó, nên tôi ngồi bên trong chăm chú lắng nghe các cụ kể chuyện
giăng câu nhà nọ, nhà kia và ao ước được đi giăng câu lần nữa.
Mới 3 giờ chiều,
ông Sáu Lào nhà ở bên cạnh đã đi đào trùn làm mồi. Ông quẩn quanh ở mấy nơi đất
ẩm ướt, rồi lấy cuốc chỉa cào qua cào lại, mấy chú trùn loi nhoi dưới đất lên,
ông lựa con nào lớn đủ cỡ làm mồi giăng câu thì lấy, con nhỏ thì thôi. Được
thể, mấy chú gà có dịp no nê căng bụng bên những con trùn nhỏ còn sót lại,
tiếng cục ta cục tát vang vọng đến đầu làng… Còn chú Năm
Tèo cứ loay hoay bên mấy bụi dứa ven đường, lùng tìm mấy chú nhái con để tí về
làm mồi giăng câu. Đám trẻ con xúm xím dõi mắt theo con nước đong đưa dưới từng
bụi dứa đã bị “khai thác” hết những chú nhái con.
Tôi qua nhà bác Hai
Núp thấy hai vợ chồng bác và anh con trai đang chăm chú móc mồi vào lưỡi câu.
Những chú trùn cựa qua cựa lại bên những lưỡi câu đang chờ đi thả. Bác bảo “Hơn
chục ngày nay, chiều nào quê mình cũng rôn rã chuyện giăng câu. Hễ chiều đến là
cả làng kéo nhau đi giăng câu. Tí nữa cháu đi với bác, về quê giăng câu cũng là
một thú vui đấy”. Tôi thích thú và đợi được đi giăng câu cùng gia đình bác Hai
Núp.
Khi mặt trời bắt
đầu loạng choạng, từng chiếc ghe bắt đầu bủa câu. Hình như nhà nào có đàn ông
đều đi giăng câu, cả làng hơn ba chục nóc nhà, ấy vậy mà nhẩm thử tôi thấy cũng
đã gần ba chục chiếc ghe đi bủa câu (chắc đi hết cả làng trừ nhà ông ngoại, ông
ngoại tuổi cao nên không đi được). Lan man theo từng con nước, bác Hai Núp bắt
đầu cắm câu và bủa câu chạy dọc các thửa ruộng, những nơi cỏ nhô lên bác lấy
tay hoắt hoắt ra ngoài rồi thả câu xuống. Sau khi hết thúng câu hơn năm trăm
lưỡi, bác đảo lại một vòng, xem lưỡi nào cá cắn câu hoặc hết mồi thì thay. Lượn
lại một lượt, trong thùng của bác đã hơn năm mươi chú cá tràu đang bơi lượn và
bắn nước tung tóe. Bác về lại nhà, tắm rửa ăn cơm rồi lát sau đem theo mùng mền
ra đồng ở lại đêm để canh câu. Tối đến, trên khắp đồng nước mênh mông, từng
ngọn đèn pin bật lên chói lóa… cả làng vui như hội.
Đi với bác Hai Núp
tôi được thưởng đến tận năm chú cá tràu. Buổi tối hôm đó, tôi và ông bà ngoại
được bữa canh chua ngon hết cỡ. Ăn đến đâu là hình như cái bụng mát đến đó
(chắc tại lâu lắm rồi tôi mới được thưởng thức lại món cá tràu nấu canh chua
của ngoại). Đêm hôm ấy tôi ngủ với ông ngoại, hai ông cháu cứ quẩn quanh những
mẫu chuyện giăng câu quê mình.
Mới tờ mờ sáng từng
chiếc ghe kéo vào bờ. Nhà này nhà nọ nói về chuyện giăng câu nhiều hay ít,
nhưng ai cũng nở nụ cười với những “chiến lợi phẩm” cả đêm của mình. Câu chuyện
giăng câu xôn xao từ đầu đến cuối làng. Văng vẳng bên chợ Quán là những tiếng
cười của những bà, cô, chị trả mua với những chú cá còn giãy đành đạch trong
thau.
-Vi Ánh Ngọc-